Hỏi đáp
Bồi thường hợp đồng
Bồi thường hợp đồng
Xem câu trả lời

 

Người gửi: Khánh

A là khách hàng mua xe ô tô có nộp số tiền 400.000.000 đồng cho tư vấn bán hàng B. Quá trình giao dịch, B thu tiền và viết phiếu thu, sau đó 02 bên ký hợp đồng. Tuy nhiên sau đó, B không mang tiền về nộp cho Công ty C mà chiếm đoạt để đánh bạc. B bị Tòa án xét xử về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và buộc bồi thường số tiền 400.000.000 đồng cho A. Tuy nhiên, A đề nghị Công ty C phải có trách nhiệm bồi thường số tiền trên cho A chứ không phải là B, B phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty C. Vậy quan điểm của A như trên có đúng không?

Câu trả lời

Điều 600 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra như sau: "Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật".

Để xác định ai có trách nhiệm bồi thường số tiền 400.000.000 đồng cho A thì cần phải làm rõ việc B giao dịch với A có đúng với nhiệm vụ, quyền hạn được Công ty C giao hay không (có được giao thu – nhận tiền, viết phiếu thu…).

- Nếu B có đầy đủ tư cách nhân danh Công ty C để giao dịch với A thì căn cứ Điều 600 Bộ luật Dân sự năm 2015, Công ty C có trách nhiệm bồi thường số tiền 400.000.000 đồng cho A chứ không phải là B và B phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty C. Do đó, quan điểm của A đưa ra là đúng.

- Trường hợp B không được Công ty C giao thu tiền nhưng vẫn viết phiếu thu và nhận tiền từ A và gây ra thiệt hại cho A và Công ty C thì B phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 400.000.000đ cho A mà không phải Công ty C.

Xác định tính hợp pháp của di chúc bằng miệng
Xác định tính hợp pháp của di chúc bằng miệng
Xem câu trả lời

Người gửi:

Chị A có chồng là B, hai con là C và D. Chị A bị ốm nặng, trước khi mất, có để lại di chúc bằng miệng và nói rõ để 1/2 di sản cho chồng và 2 con, 1/2 di sản cho bố mẹ đẻ. Tại thời điểm chị A để lại di chúc bằng miệng, chỉ có chồng và bố mẹ đẻ cùng 1 người hàng xóm làm chứng, ngoài ra không có ai. Như vậy, di chúc miệng mà chị A để lại có hợp pháp hay không?

Câu trả lời

Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc miệng như sau: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Trong tình huống trên, có 4 người làm chứng cho di chúc miệng của chị A . Tuy nhiên, những người sau đây không được làm chứng cho việc lập di chúc theo quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 là:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Chị A đã để lại di sản cho chồng, 2 con và bố mẹ đẻ. Trong 4 người làm chứng cho việc lập di chúc, có 3 người là chồng, bố đẻ, mẹ đẻ chị nằm trong diện thừa kế theo di chúc, chỉ có người hàng xóm là không thuộc 3 trường hợp quy định tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, di chúc miệng của chị A để lại không hợp pháp. Di sản của chị A sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.

 

UBND huyện chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh Tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền bồi thường là đúng hay sai?
UBND huyện chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh Tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền bồi thường là đúng hay sai?
Xem câu trả lời

UBND huyện chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh Tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền bồi thường là đúng hay sai?

Người gửi: Sơn Nguyễn

Bà A được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 diện tích 10.000m2 bao gồm 3 thửa 1,2,3, trong đó thửa số 3 có diện tích 1.000m2 . Năm 2009, UBND huyện C phê duyệt kinh phí bồi thường cho bà A. Sau khi phê duyệt kinh phí bồi thường xong thì bà B có đơn khiếu nại cho rằng thửa đất số 3 do bà B sử dụng, không phải của bà A. Việc đất của bà B nhưng UBND huyện C cấp giấy cho bà A là không đúng quy định nên UBND huyện C đã giao cho Cơ quan Thanh Tra xác minh. Năm 2015, Cơ quan Thanh Tra huyện C đã tiến hành xác minh khẳng định khiếu nại của bà B là đúng và đề nghị UBND huyện bồi thường cho bà B theo quy định (Tài liệu, chứng cứ chứng minh đúng diện tích đất này của bà B). Năm 2017, UBND huyện C ban hành quyết định điều chỉnh diện tích thu của bà A từ 10.000m2 giảm xuống còn 9.000m2 và ban hành quyết định điều chỉnh số tiền bồi thường đã phê duyệt cho bà A trước đó từ 500 triệu đồng giảm xuống còn 450 triểu đồng. Không đồng ý, bà A khiếu nại đối với 2 quyết định điều chỉnh của UBND huyện C năm 2017. Hỏi: UBND huyện C chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh Tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền bồi thường của bà A là đúng hay sai? Vì thực tế UBND huyện C không có văn bản nào xử lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà A năm 1997 (thu hồi hay điều chỉnh)…

Câu trả lời

Trong tình huống trên, UBND huyện C chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền bồi thường của bà A là sai, không tuân thủ đúng quy định của Luật Đất đai và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp Giấy chứng nhận đã cấp không đúng diện tích đất.
Việc bà B phát hiện UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 10.000m2 bao gồm 3 thửa 1, 2, 3 cho bà A là không đúng và cho rằng thửa số 3 diện tích 1000m2 là của bà, không phải của bà A. Sau khi có đơn khiếu nại của bà B, UBND huyện C đã giao cho Cơ quan Thanh tra xác minh là đúng quy định tại điểm c khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Tuy nhiên, việc UBND huyện C không có văn bản nào xử lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà A năm 1997 (thu hồi hay điều chỉnh…) mà chỉ căn cứ vào báo cáo của Cơ quan Thanh tra để thực hiện điều chỉnh diện tích đất thu hồi và số tiền là chưa đúng, bởi vì:
Thứ nhất, điểm d khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai quy định: “Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai”.
Thứ hai, khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định về “Thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp…
4. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tại điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định Giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra;
b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra; nếu kết luận là Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật thì thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do; sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo cho người sử dụng đất mà không có đơn khiếu nại thì ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp; c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì gửi kiến nghị, phát hiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định tại điểm b khoản này”.
Khoản 56 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 03/3/2017 sửa đổi, bổ sung điểm b và c khoản 4 Điều 87 quy định như sau: “b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;
c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai”.
Như vậy, trong trường hợp này, sau khi Cơ quan Thanh tra huyện C đã xác minh và kết luận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 diện tích 10.000m2 bao gồm 3 thửa 1, 2, 3 đã cấp cho bà A không đúng diện tích đất, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, UBND huyện C phải ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà A, sau đó mới thực hiện các thủ tục để điều chỉnh diện tích đất.

 

Khi nào hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức bị vô hiệu?
Khi nào hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức bị vô hiệu?
Xem câu trả lời

Người gửi: Vu Tien Hiep

Khi nào hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức bị vô hiệu? Quy định "đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch" được hiểu như thế nào?

Câu trả lời

Về nguyên tắc, hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định; giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức vô hiệu là 02 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập; hết thời hiệu này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực (điểm đ khoản 1 và khoản 2 Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015).

Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định 02 trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc trên, cụ thể là:

“1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.

Việc xác định một hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch phụ thuộc vào từng loại nghĩa vụ cụ thể. Ví dụ: Nếu là nghĩa vụ giao hàng thì phải giao được ít nhất 2/3 khối lượng hoặc số lượng hàng; nếu là nghĩa vụ trả tiền thì phải trả được ít nhất 2/3 số tiền; nếu nghĩa vụ là hoàn thành một công việc thì phải thực hiện được ít nhất 2/3 công việc;...

                                                                                                                                                                      Biên tập

 

Các bên có thể thỏa thuận về “lãi phạt” không?
Các bên có thể thỏa thuận về “lãi phạt” không?
Xem câu trả lời

Các bên có thể thỏa thuận về “lãi phạt” không

Người gửi: Vũ Quang

Theo Bộ luật dân sự năm 2015, trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì ngoài nợ gốc, bên vay phải trả những loại lãi gì? Các bên có thể thỏa thuận về “lãi phạt” không?

Câu trả lời

Theo khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 thì trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì ngoài nợ gốc, bên vay phải trả những loại lãi sau:

- Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay;

- Lãi chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự (tối đa 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả);

- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Ngoài 03 loại lãi trên, các loại lãi khác do các bên thỏa thuận không được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên, cần phân biệt với phạt vi phạm. Các bên được thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng theo quy định tại Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 300 và Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Phạt vi phạm là chế tài độc lập áp dụng đối với bên đã vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, với điều kiện là các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng về phạt vi phạm.

Theo khoản 1 Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng đã có thỏa thuận về trả lãi tiền vay theo khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì không được thỏa thuận về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2015 không có quy định này. Vì vậy, có cách hiểu là: Trừ hợp đồng cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, đối với hợp đồng vay tài sản khác thì ngoài 03 loại lãi theo khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự, bên vay còn bị phạt vi phạm, nếu các bên đã có thỏa thuận và bên bị vi phạm có yêu cầu.

 

Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với khiếu kiện quyết định hành chính
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với khiếu kiện quyết định hành chính
Xem câu trả lời

Người gửi: Việt Anh

Quyết định hành chính được Trưởng phòng của Ủy ban nhân dân huyện ký thừa ủy quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện mà quyết định hành chính đó bị khiếu kiện thì có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện không?

Câu trả lời

Điều 2 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP quy định:

“Trường hợp quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính do một người cụ thể ký hoặc thực hiện, nhưng người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính với danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh đó.

Ví dụ: Quyết định hành chính do ông Nguyễn Văn A ký với danh nghĩa Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B  thì gọi là quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B mà không gọi là quyết định hành chính của ông Nguyễn Văn A”.

 Trên cơ sở tham khảo quy định trên, quyết định hành chính được Trưởng phòng của Ủy ban nhân dân huyện ký thừa ủy quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thì xác định là quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Quyết định hành chính này bị khiếu kiện thì người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Căn cứ khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Hiệu lực của di chúc chung vợ chồng
Hiệu lực của di chúc chung vợ chồng
Xem câu trả lời

Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Linh

Hai vợ chồng có tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất. Năm 2009, hai vợ chồng có lập di chúc chung với nội dung để lại di sản là nhà và đất nêu trên cho người con trai duy nhất của hai người. Di chúc được công chứng tại Văn phòng công chứng. Năm 2012, người vợ chết. Hiện nay người chồng vì kinh tế khó khăn, muốn bán/ thế chấp phần tài sản của mình trong tài sản nêu trên thì có được hay không? Thủ tục như thế nào? Giá trị của di chúc và phần di sản của người vợ được xử lý như thế nào?

Câu trả lời

Do người vợ chết năm 2012 nên căn cứ áp dụng pháp luật về thừa kế là Bộ luật Dân sự năm 2005, năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 663 “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”; Điều 668 “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”; khoản 2 Điều 664 “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung ... nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Khoản 1 Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào”. Như vậy, trong trường hợp này (di chúc được công chứng tại Văn phòng công chứng nên được xem là di chúc hợp pháp) người chồng có quyền thay đổi di chúc đối với phần di sản là nhà và đất của mình.

Di chúc có hiệu lực pháp luật về phần di sản của người vợ để lại, do đó, người con có quyền được hưởng theo nội dung di chúc. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trường hợp “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, nên người con có thể không được hưởng toàn bộ phần di sản của người vợ nếu có những người thuộc trường hợp “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” có yêu cầu được chia di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Do vậy, người chồng có thể bán hoặc thế chấp phần tài sản của mình trong khối tài sản nêu trên sau khi đã làm thủ tục hủy bỏ phần di chúc đã lập chung với vợ và thỏa thuận được phân chia tài sản trên với con trai (phần di sản thừa kế con trai được hưởng từ người vợ).

Trường hợp người chồng và con trai không thỏa thuận được thì khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chia thừa kế?
Chia thừa kế?
Xem câu trả lời

Người gửi: Hương

Ông ngoại tôi có mảnh đất hơn 3 sào. Ông tôi có 5 người con (4 con gái con bà cả, 1 con trai con bà hai – sau này ông tôi ly hôn với bà hai và sống với bà cả là bà ngoại tôi, cậu tôi là con bà hai thì theo sống cùng mẹ ở nơi khác). Năm 1983, dì út tôi lấy chồng và dọn về ở cùng ông bà ngoại tôi. Khi còn sống, ông tôi vẫn nói mảnh vườn đó chia cho cậu tôi và dì tôi mỗi người một nửa nhưng ông không viết thành di chúc. Năm 1987, ông ngoại tôi mất, năm 1993, dì tôi sang tên bìa đỏ cả mảnh vườn đó cho dì mà không có phần của cậu tôi (lúc này các anh chị em của dì tôi không ai được biết, vì bà ngoại tôi còn sống nên các con không để ý vườn đất). Năm 2014, bà ngoại tôi mất, năm 2017, các anh chị em của mẹ tôi mới bàn đến việc chia vườn cho cậu tôi để cậu về làm tròn nghĩa vụ thờ cúng ông bà thì mới biết dì tôi đã sang tên bìa đỏ tên của dì. Vậy tôi xin hỏi:

1. Việc dì tôi sang tên bìa đỏ vào năm 1993 (sau khi ông tôi mất 6 năm) có đúng pháp luật không?

2. Nếu bây giờ một trong những người con của ông ngoại tôi khởi kiện thì theo pháp luật sẽ được giải quyết như thế nào?

Câu trả lời

1. Ông ngoại của bạn sống cùng bà ngoại của bạn trên tài sản tranh chấp, theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì tài sản này được xác định là tài sản chung của hai ông bà. Năm 1987, ông ngoại của bạn chết, không để lại di chúc. Tuy dì út của bạn sống cùng ông, bà ngoại bạn từ năm 1983 nhưng trên cơ sở dữ liệu bạn cung cấp không có căn xác định ông, bà ngoại của bạn đã tặng cho/để lại thừa kế mảnh đất trên cho dì út của bạn. Do đó, năm 1993 (sau khi ông ngoại của bạn chết 6 năm và không để lại di chúc), dì út của bạn thực hiện thủ tục sang tên bìa đỏ mảnh đất trên, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi không có sự đồng ý của tất cả những người thừa kế của ông ngoại của bạn là không đúng quy định của pháp luật.

2. Trường hợp một trong những người con của ông ngoại của bạn khởi kiện thì Toà án sẽ thụ lý vụ án nếu việc khởi kiện đảm bảo về nội dung và hình thức theo quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và không thuộc các trường hợp bị trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 192 BLTTDS năm 2015.

Ông, bà ngoại của bạn là đồng sở hữu quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Năm 1987, ông ngoại của bạn chết. Theo quy định tại Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Tòa án nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về thi hành Luật TTHC" và tham khảo Phần I Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TAND tối cao thì đối với trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước ngày 10/9/1990 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản kể từ ngày 10/9/1990. Do đó, ông ngoại của bạn chết năm 1987 thuộc trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của ông ngoại của bạn được tính từ ngày 10/9/1990, đến nay (tháng 11/2022) là 32 năm nên thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế đối với phần di sản thừa kế của ông ngoại của bạn trong khối tài sản chung của ông, bà ngoại của bạn đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Do đó, phần di sản của ông ngoại của bạn trong thửa đất trên sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015.

Bà ngoại của bạn chết năm 2014 nên nay những người con của ông bà ngoại của bạn chỉ có thể yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của bà ngoại của bạn trong thửa đất trên. Nếu bà ngoại của bạn cũng không để lại di chúc thì phần di sản này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.

Câu trả lời có tính chất tham khảo.

 

 

Tài sản trước hôn nhân
Tài sản trước hôn nhân
Xem câu trả lời

Người gửi: [email protected]

Một năm trước khi kết hôn, chồng có mua 01 căn chung cư hình thức trả góp đứng tên chồng. Sau khi kết hôn thì 02 vợ chồng cùng làm trả nợ. Vậy nếu sau này ly hôn thì tài sản là căn chung cư đó có được coi là tài sản chung của hai vợ chồng hay không?

Câu trả lời

Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung… Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.

Đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, một phần căn hộ chung cư nêu trên là tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (phần vợ, chồng cùng trả tiền mua). Nếu hai vợ chồng có thỏa thuận về việc phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân (thỏa thuận phải bằng văn bản, có công chứng, chứng thực) thì thực hiện theo thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì việc chia tài sản khi ly hôn đặt ra 02 trường hợp:

1. Trường hợp căn hộ chung cư đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đứng tên hai vợ chồng và sau khi được cấp giấy chứng nhận người chồng không có ý kiến phản đối hoặc chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nhưng người chồng thể hiện rõ việc đồng ý nhập một phần căn hộ là tài sản riêng của mình (tính theo tỉ lệ dựa trên số tiền đã trả góp trước khi kết hôn) vào tài sản chung vợ chồng (việc đồng ý phải được thực hiện bằng văn bản, có công chứng, chứng thực) thì căn hộ chung cư này là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

2. Trường hợp căn hộ chung cư chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và người chồng không đồng ý nhập phần tài sản riêng của mình vào tài sản chung của vợ chồng thì khi chia tài sản phải xem xét phần công sức đóng góp của mỗi bên trong việc hình thành khối tài sản để chia tỉ lệ cho người chồng nhiều hơn hoặc khấu trừ đi phần giá trị mà người chồng đã trả góp cho căn nhà trước khi kết hôn rồi mới chia đều phần còn lại cho mỗi bên.

Câu trả lời có tính chất tham khảo.

 

Thế chấp tài sản đảm bảo khoản vay cho bên thứ 3
Thế chấp tài sản đảm bảo khoản vay cho bên thứ 3
Xem câu trả lời

Người gửi: Trần Đức Hoàn

Ông bà tôi dùng tài sản là quyền sử dụng đất ký hợp đồng thế chấp với Ngân hàng VP chi nhánh Ngô Quyền (Bên Ngân hàng) để đảm bảo cho khoản vay của người thứ 3 là công ty Tiến Đạt từ năm 2010, Ngân hàng VP chi nhánh Ngô Quyền đã ký 3 hợp đồng tín dụng với công ty Tiến Đạt trong năm 2011. Công ty Tiến Đạt đã trả nợ đủ. Năm 2012, Công ty Tiến Đạt lại ký 02 hợp đồng tín dụng với phòng giao dịch Nguyễn Biểu Chi nhánh Hà Nội cũng của ngân hàng VP mà không dược sự đồng ý của ông bà tôi. Sau đó giám đốc Công ty Tiến Đại không trả nợ và bỏ trốn. Ngân hàng VP khởi kiện ra Tòa, họ sử dụng chứng cứ là 2 hợp đồng tín dụng giữa Công ty Tiến Đạt vay tại phòng giao dịch Nguyễn Biểu và chi nhánh Hà Nội của ngân hàng VP để yêu cầu phát mãi tài sản của ông bà tôi. Xin hỏi, ông bà tôi có hay không nghĩa vụ đảm bảo cho việc cấp tín dụng của chi nhánh ngân hàng khác cho Công ty Tiến Đạt không phải chi nhánh ngân hàng đã ký hợp đồng thế chấp với ông bà tôi và không được sự đồng ý của ông bà tôi?

Câu trả lời

Câu 1: Ông bà tôi có hay không nghĩa vụ bảo đảm cho việc cấp tín dụng của chi nhánh ngân hàng khác cho Công ty Tiến Đạt không phải là chi nhánh ngân hàng đã ký hợp đồng thế chấp với ông bà tôi và không được sự đồng ý của ông bà tôi?

Trường hợp độc giả nêu lên chưa đủ cơ sở dữ liệu để trả lời câu hỏi này, vì thông thường 1 vụ án kinh doanh, thương mại nói chung, vụ án kinh doanh, thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng có rất nhiều trường hợp, tình huống phát sinh, phải có hồ sơ mới trả lời đầy đủ được.

Trong trường hợp này, mặc dù việc Công ty Tiến Đạt vay của Phòng Giao dịch Nguyễn Biểu, chi nhánh Hà Nội của VP bank năm 2012 tại 02 hợp đồng tín dụng không được sự đồng ý của ông bà độc giả, nhưng phải xem xét cụ thể phạm vi hợp đồng thế chấp đã ký kết trước đó chỉ bảo đảm cho nghĩa vụ của 03 hợp đồng tín dụng mà Công ty Tiến Đạt ký với VP bank chi nhánh Ngô Quyền hay bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ của các chi nhánh tại VP bank và phải xem xét phạm vi về thời gian bảo đảm trước, trong hoặc sau khi ký các hợp đồng tín dụng và những chứng cứ, tài liệu khác có liên quan.

 

Câu 2: Hai hợp đồng tín dụng trên được xem là chúng cử để giải quyết tranh chấp hợp đồng tranh chấp giữa 3 bên?

02 Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Công ty Tiến Đạt và Phòng Giao dịch Nguyễn Biểu, chi nhánh Hà Nội của VP bank năm 2012 vẫn được xem là chứng cứ theo quy định tại Điều 93 BLTTDS năm 2015 để giải quyết tranh chấp, vì nó có liên quan đến nghĩa vụ của bên vay (Công ty Tiến Đạt) và việc xem xét phạm vi trách nhiệm của bên thế chấp.

Câu trả lời có tính chất tham khảo.

Thời hạn chia di sản thừa kế
Thời hạn chia di sản thừa kế
Xem câu trả lời

Hỏi

Năm 1990, bà nội tôi có chia đất cho bố tôi và chú tôi. Năm 1992, bố tôi mất không để lại di chúc, sau đó khu tôi ở từ huyện lên quận và cơ quan nhà nước cấp lại GCNQSDĐ ghi tên bố tôi (đã mất) và mẹ tôi. Năm 2022 bà nội mất. Hỏi các cô, chú tôi có khởi kiện đòi chia đất do bố tôi mất không để lại di chúc cho hàng thừa kế thứ nhất bao gồm bà nội tôi được thừa kế từ bố tôi không. Còn thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế không?

Câu trả lời

Theo thông tin của bạn thì việc bà nội của bạn cho bố bạn đất năm 1990 và việc bố mẹ bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp, không có tranh chấp.

Bố bạn mất năm 1992 (bạn không nêu ngày, tháng). Theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố bạn hết vào ngày, tháng bố bạn mất của năm 2022.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Do đó, có 02 trường hợp:

- Trường hợp các cô, chú của bạn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố bạn để được hưởng phần của bà nội bạn mà không có ai yêu cầu áp dụng thời hiệu theo quy định trên thì Tòa án sẽ thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tòa án sẽ xác định phần tài sản của bố bạn trong khối tài sản chung với mẹ bạn là di sản để chia thừa kế theo pháp luật. Khi bố bạn mất, bà nội bạn vẫn còn sống nên bà là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn, vì vậy bà sẽ được chia một kỷ phần. Vì bà nội bạn đã mất nên kỷ phần này sẽ được giao cho những người thừa kế còn sống của bà nội bạn.

Trường hợp các cô, chú của bạn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố bạn mà bạn có yêu cầu áp dụng thời hiệu theo quy định trên, nếu thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Lúc này, di sản của bố bạn sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó theo khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Câu trả lời có tính chất tham khảo.

 

Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 có điểm gì khác biệt với quy định về vấn đề này tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005?  Khi xem xét áp dụng khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự trong quy định giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực được hiểu là giao dịch dân sự ban đầu bị vô hiệu hay giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba
Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 có điểm gì khác biệt với quy định về vấn đề này tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005? Khi xem xét áp dụng khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự trong quy định "giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực" được hiểu là giao dịch dân sự ban đầu bị vô hiệu hay giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba
Xem câu trả lời

Người gửi: Nguyen Duy Thuan

Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 có điểm gì khác biệt với quy định về vấn đề này tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005?

Khi xem xét áp dụng khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự trong quy định "giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực" được hiểu là giao dịch dân sự ban đầu bị vô hiệu hay giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình?

Câu trả lời

1. Khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu mà “Tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.

Khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu...”.

Quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên đều có chung tiền đề là giao dịch dân sự ban đầu bị vô hiệu nhưng giao dịch chuyển giao tài sản là đối tượng của giao dịch vô hiệu cho người thứ ba ngay tình lại có 02 hậu quả pháp lý khác nhau. Theo Bộ luật dân sự năm 2015, nếu tài sản giao dịch đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch chuyển giao tài sản có hiệu lực, quyền lợi của người thứ ba ngay tình vẫn được bảo vệ ngay cả khi giao dịch dân sự ban đầu vô hiệu. Trường hợp này, nếu theo Bộ luật dân sự năm 2005 thì giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình bị xác định là vô hiệu.

2. Khi xem xét áp dụng khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự trong quy định “giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực” được hiểu là giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình vì đây là giao dịch trực tiếp dẫn đến hệ quả pháp lý người thứ ba ngay tình có được bảo vệ hay không.

Trường hợp giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực, chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nêu tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015, các nội dung khác và hình thức của giao dịch cũng phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình không bị vô hiệu (điểm b khoản 1 Điều 688).

Trường hợp giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình được xác lập và thực hiện xong trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực mà có tranh chấp, dù nội dung và hình thức của giao dịch hoàn toàn phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 thì việc giải quyết vẫn phải căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, giao dịch chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình sẽ bị xác định là vô hiệu (điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015).

 

Gửi câu hỏi cho luật sư
Chuyên tư vấn và thực hiện các dịch vụ pháp lý 24/7. Bạn có thể gửi câu hỏi đến Luật sư sẵn sàng trả lời
Họ tên *
Địa chỉ *
Email *
Điện thoại
Nội dung câu hỏi *
Mã bảo mật *
captcha